Dàn ý
Mở bài:
- Truyện Chữ người tử tù thành công nhiều mặt về nghệ thuật, trong đó nổi bật là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật.
- Đặc sắc nghệ thuật đó được thể hiện tập trung ở việc miêu tả thái độ ứng xứ của nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục.
Thân bài.
Nên phân tích theo hai giai đoạn:
a) Giai đoạn đầu:
- Viên quản ngục tỏ thái độ biệt đãi Huấn Cao nhưng Huấn Cao đã nói những lời miệt thị, chối từ (dẫn chứng).
- Nhận xét về lời nói và thái độ của viên quản ngục và lời chối từ ngắn gọn, dứt khoát, đầy miệt thị của Huấn Cao.
- Phân tích vì sao Huấn Cao có thái độ như vậy. Thái độ đó có phù hợp với nhân cách của Huấn Cao hay không? .
b) Giai đoạn sau:
- Huấn Cao cảm động vì tấm lòng "biệt nhỡn liên tài" của quản ngục. Ông đã viết tặng viên quản ngục những chữ cuối cùng của đời mình và khuyên bảo viên quản ngục những lời tâm huyết (Trích dẫn chứng để phân tích).
- Nhận xét về thái độ và lời nói của Huấn Cao đối với viên quản ngục. Vì sao lời nói và thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục lại hoàn toàn khác trước? Thái độ đó có hợp với nhân cách của Huấn Cao hay không?
Kết bài:
- Nguyễn Tuân đã vẽ lên một hình ảnh Huấn Cao:
+ Vừa cao ngạo, bất khuất;
+ Vừa chân tình và tài hoa, biết trân trọng những tấm lòng tốt trong thiên hạ, biết đề cao thiên lương đẹp đẽ của con người, biết yêu quý nghệ thuật.
- Nguyễn Tuân đã thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật.
Bài mẫu
“Chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân Truyện ngắn “Chữ người tử tù” trong tập truyện “Vang bóng một thời” của Nguyễn Tuân là một tác phẩm tiêu biểu và có nhiều thành công lớn về mặt nội dung lẫn nghệ thuật. Bên cạnh bút pháp lãng mạn, thủ pháp nghệ thuật đối lập,…nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng tạo một ấn tượng khó phai mờ, góp phần vào sự thành công của truyện. Điều đó, thể hiện rõ nét quá tâm lí nhân vật Huấn Cao, đặ biệt là diễn biến tâm lí, thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục.
Nhân vật Huấn Cao hiện lên trong tác phẩm “Chữ người tử tù” là một anh hung, đầu đội trời, chân đạp đất; có tài viết chữ đẹp; văn võ song toàn. Bởi vì Huấn Cao có tấm lòng nhân ái bao la; ông thương cho nhân dân vô tội, nghèo khổ, lầm than bị áp bức bóc lột bởi giai cấp thống trị tàn bạo nên cùng nhân dân khởi nghĩa chống lại triều đình. Nhưng cuộc khởi nghĩa không thành công, ông bị triều đình bắt giam vào chốn tù với án tử chờ ngày ra pháp trường.
Chính chốn ngục tù tăm tối ấy là nơi diễn ra cuộc gặp gỡ khác thường giữa hai nhân vật khác thường : một bên là viên quản ngục - kẻ đạị diện cho chính quyền phong kiến thối nát, bảo thủ đương thời; một bên là người tử tù Huấn Cao – một kẻ “nổi loạn”; một anh hung vì bất mãn với cường quyền mak đứng lên khởi nghĩa. Xét về phương diện xã hội, họ là hai thế lực thù địch, đối lập nhau.
Hiểu rõ điều này hơn ai hết là Huấn Cao. Ông tỏ vẻ coi thường, khinh miệt viên quản ngụ. Nhưng sự đời nào ai biết trước chuyện gì, tưởng chừng viên quản ngục là kẻ xấu xa, bảo thủ; ai ngờ rằng con người ấy lại có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”, có sở thích cao quý, rất mến và yêu cái tài viết chữ của ông Huấn. Sau khi hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, Huấn Cao đã thay đổi thái độ: từ khinh miệt, coi thường đến trân trọng yêu quý và vì thế, ông đã đồng ý cho chữ. Chẳng những vậy, Huấn Cao còn dành những lời nói cuối cùng vọng lên từ tâm hồn của một nhà nho chân chính khuyên giải viên quản ngục, nhắc ông quay về với thiên lương.
Lần đầu tiên “ra mắt” những quản ngục tính Sơn, trước uy quyền của nhà lao, Huấn Cao vẫ tỏ ran gang ngạo. Ông vẫn giữ thái độ bình thản, xem thường bằng việc làm đầy thách thức : “rõ mạnh gông”. Huấn Cao “cúi đầu thúc mạnh dầu thang xuống đất đánh thuỳnh một cái” làm vỡ tan đi chốn trang nghiêm của chốn ngục tù. Vào trong nhà giam rồi nhưng ông vẫn ngang tàn, ko hề nhún nhường. “Suốt nửa tháng”, trong khi viên quản ngục vì mến tài viết chữ mà hết lòng ưu ái, “biệt đãi” ông và các đồng chí thì Huấn Cao tỏ vẻ : “khinh miệt đến điều”. Khi viên quản ngục “mở khóa cửa buồng kín, khép nép hỏi ông Huấn” : “Ngài muốn gì xin cho tôi biết tôi sẽ cố gắng chu cấp” thì ông khinh bạc, lạnh lung trả lời : “ Ngươi bảo ta cần gì, ta chỉ cần ngươi đừng đặt chân vào đây nữa”. Cách trả lời ngang tàn, ngạo mạn. Huấn Cao không thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ mà ông xúc phạm. Ông rất ung dung, bình thản.
Thái độ trên của Huấn Cao đối với viên quản ngục là một điều tất yếu. Bởi vì, Huấn Cao chưa hiểu được tấm lòng của một người giữ tù. Trong suy nghĩ của ông Huấn, hắn chỉ là một con người xấu xa, tàn bạo; đại diện cho chính quyền phong kiến thối nát ông thù hận : hắn là kẻ thù của ông. Huấn Cao đâu chỉ tài năng xuất chúng, ông còn có nhân cách và khí phách của một người anh hung. Với nhân cách cao đẹp, trong mắt Huấn Cao, ông chỉ coi viên quản ngục là kẻ tiểu nhân, ăn bám theo cái chính quyền phong kiến tàn lụi mà ông căm ghét : tất cả bọn chúng chỉ là những kẻ đáng khinh, đáng coi thường mà thôi !
Nếu mạch truyện đi theo chiều hướng này thì cũng rất hay. Nhưng Nguyễn Tuân lại không muốn đi theo con đường tầm thường ấy. Mỗi tác phẩm của ông đều phải xuất sắc, đạt đến trình độ hoàn mỹ toàn diện. Như ta đã biết, Nguyễn Tuân là một nhà văn lãng mạn, ông yêu đến say đắm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn thờ cái đẹp. Nhân vật hiện lên trong các tác phẩm của ông phải là hiện thân của cái đẹp. Nhân vật viên quản ngục không phải là ngoại lệ. Tìm ẩn trong con người ấy là cả một tâm hồn trong sáng với thiên lương cao quý. Để cho người đọc thấy rõ điều đó, Nguyễn Tuân đã mượn thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục- một thái độ khác hẳn, hoàn toàn ngược lại ban đầu.
Huấn Cao cẩm thấy ân hận, ông “lặng nghĩ một lát rồi mỉm cười”: “Ta cảm thấy tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có sở thích cao quý đến như vậy. Thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Do đó, dù là một người “vốn khoảnh”, “trừ chỗ tri kỉ”, “ông ít cho chữ” thì nay, những dòng chữ cuối đời của mình, ông dành tặng người quản ngục. Có phải lúc bấy giờ, viên quản ngục đã trở thành “người tri kỉ” của Huấn Cao ?. Một người mà Huấn Cao tin tưởng trao “những nét chữ cuối cùng của mình”. Chẳng những vậy, ông còn coi viên quản ngục như chỗ tri âm mà khuyên giải: “Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi…tìm về quê mà ở…rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ơ đây khó giữ cho thiên lương lành vững và rồi cũng nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Huấn Cao đã thay đổi hoàn toàn thái độ với viên quản ngục. Đoạn văn miêu tả cảnh cho chữ đã gây nhiều rung cảm cho người đọc, xứng đáng là “cảnh tưởng” đẹp nhất trong văn học Việt Nam.
Đó quả thật là “cảnh tưởng xưa nay chưa từng có”. Nguyễn Tuân chắc đã tập trung toàn bộ tài năng và sự lãng mạn, bay bổng vào cảnh này. Viết chữ hay cho chữ thường diễn ra ở nơi trang nhã thanh cao như thư phòng. Còn ở đây, lại diễn ra ở chốn ngục tù tăm tối. Lúc nửa đêm, trong nhà tù, vài canh giờ trước lúc ra pháp trường. Trong không gian trật hẹp, nơi mịt mù, tăm tối kia. Một người tù “cổ mang gông, chân vướng xiềng” đang tô dậm những nét chữ bay bổng “cuối cùng”. Cạnh bên là viên quản ngục đang khúm núm, sợ sệt.
Không gian im lìm, tĩnh lặng, nếu có âm thanh vang lên thì đó là tiếng nói của Huấn Cao, tiếng nói của cái đẹp,…tiếng nói khuyên con người về với cái thiện “ở đây lẫn lộn, ta khuyên thầy…về quê, không ở đây nhem nhuốc” cả tâm hồn lẫn nhân phẩm. Và người quản ngục chỉ có thế nghẹn ngào một tiếng “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Vậy là cái Đẹp đã cảm hóa cái xấu, cái ác. Lời khuyên chân tình của Huấn Cao : “ Ở đây không phải chốn treo tấm lụa” còn khẳng định một điều : cái Đẹp không thể sống chung, sống cùng, sống lẫn lộn với cái ác, cái xấu. Sau câu nói của Huấn Cao, không gian tĩnh lặng để cho cái Đẹp, cái Thiện bồi hồi nhân vang….Và khi ấy, Huấn Cao và người quản ngục từ thế đối lập đã hòa vào nhau chỉ còn niềm tôn kính vô bờ, trân trọng cái Đẹp, cái Thiện của cuộc đời này.
Sự thay đổi thái độ của Huấn Cao với viên quản ngục thực ra không có điều gì bất ngờ và phi lí. Bởi thực tế, Huấn Cao là người khí phách nhưng viên quản ngục không phải hoàn toàn xấu xa. Huống hồ họ gặp nhau nơi lòng yêu mến, tong sung cái đẹp. Vì vậy, ta có thể hiểu con đường họ đi từ thế đối lập sàn hòa hợp trong sự tỏa hương của con chữ thiên lương. Không chỉ vậy, trong nhân cách Huấn Cao, ông còn là con người đầy tinh tế, độ lượng, biết trọng người có thiên lương. Ông vì cảm tấm lòng mà cho chữ kẻ tội đồ của cái Thiện. Nơi ngục tù, lúc cuối đời, ông đâu ngờ lại gặp được một tâm hồn tri âm, tri kỉ !
Miêu tả thành công diễn biến tâm trạng, thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục, Nguyễn Tuân đã tô đậm nhân cách cho nhân vật Huấn Cao-một con người tài hoa, có cái tâm trong sáng và khí phách hiên ngang, bất khuất. Đó là hình tượng cho một con người có nhân cách cao đẹp-một biểu tượng hoàn mĩ cho cái Đẹp, cái Thiện. Qua diễn biến tâm lí nhân vật Huấn Cao, nhà văn đã khẳng định hai điều : cái thiện có thể sinh ra từ cái ác nhưng không thể sống chung, sống lẫn lộn cùng với cái ác và cái thiện, cái đẹp có thể cảm hóa được con người.
Huấn Cao là một hình thượng văn học hoàn mĩ, đẹp đẽ nhất trong nền văn học nước nhà. Nhưng hình tượng ấy không hề cứng nhắc, khô khan. Ngược lại, nó vô cùng sinh động dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân. Với bút pháp xây dựng nhân vật độc đáo, Nguyễn Tuân đã vẽ nên một hình ảnh Huấn Cao vừa cao ngạo, bất khuất, vừa chân tình, tài hoa, biết yêu quý nghệ thuật, trân trọng những tấm lòng trong thiên hạ, biết đề cao thiên lương con người. Điều đó cũng khẳng định sự thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật và thêm một lần nữa ngợi ca phong cách nghệ thuật tài hoa độc đáo của Nguyễn Tuân trong nền văn học Việt Nam.
Nguồn: Sưu tầm
soanvan.me