Dàn ý
1. Mở bài:
- Giới thiệu về hình ảnh người phụ nữ trong văn học nói chung.
- Cảm hứng về người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương và thơ Trần Tế Xương.
2. Thân bài
Qua ba bài thơ, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xưa được thể hiện nổi bật ở những phẩm chất sau:
- Người phụ nữ chịu nhiều thiệt thòi, gian nan, vất vả:
+ Khổ đau vì vất vả, cực nhọc.
+ Khổ đau vì không được làm chủ số phận.
+ Khổ đau vì cô quạnh, thiếu vắng hạnh phúc lứa đôi, vì không được yêu thương, thông cảm,..
- Người phụ nữ với nhiều phẩm chất tốt đẹp và nhiều khao khát yêu thương:
+ Tình yêu thương, lòng nhân hậu, một lòng một dạ vì chồng.
+ Sự đảm đang, tần tảo.
+ Lòng dạ sắt son vẫn được giữ vẹn, không để mất đi trong cuộc đời chìm nổi, lênh đênh.
+ Tinh thần mạnh mẽ, dám vượt lên trên đau đớn để tìm hạnh phúc mà mình hằng khao khát.
- Đấy là những hiện thân cho nỗi khổ đau của con người trong xã hội xưa, đồng thời là sự kết tinh của những đức tính truyền thống đẹp đẽ của dân tộc Việt Nam đã tích lũy trong ngàn năm lao động và tranh đấu.
3. Kết bài: Tổng kết vấn đề.
Bài mẫu
Đề tài viết về người phụ nữ luôn là mảnh đất màu mỡ cho cho chủ nghĩa nhân đạo trong thơ ca trung đại phát triển. Nếu thơ Hồ Xuân Hương là “Tiếng nói tâm tình của người phụ nữ” thì sau bà có Tú Xương_nhà thơ trào phúng luôn dành tình cảm sâu đậm cho người vợ của mình. Tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ trong thơ của hai thi sĩ là bài “Bánh trôi nước” và “Thương vợ”, qua đó người phụ nữ thời xưa hiện lên là những con người mang trong mình vẻ đẹp về nhan sắc, phẩm hạnh nhưng lại phải chịu số phận bất hạnh, đáng thương.
Mỗi một nhà thơ có một cách thể hiện tình cảm của mình đối với người phụ nữ nhưng nhìn chung trong hai bài thơ “Bánh trôi nước” và “Thương vợ” hình ảnh người họ hiện lên có những nét tương đồng là thân phận chung của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Trước tiên họ là những con người có nhan sắc-vẻ đẹp bên ngoài. Điều đó được thể hiện rõ nét trong bài “Bánh trôi nước”. Chiếc bánh trôi nước được làm từ bột gạo nếp tinh khiết, trắng trẻo, mịn màng và tròn trịa rất dễ dàng cho người ta liên tưởng đến dung nhan xinh đẹp, hồn nhiên, đầy đặn của người con gái đang độ xuân thì. Vẻ đẹp ấy được bà so sánh trong câu thơ “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”. Điều đó khiến cho ta nhớ tới vẻ đẹp của người phụ nữ trong ca dao dân gian. Họ mang nét đẹp của “Tấm lụa đào”, “Cây quế giữa rừng”... tỏa hương thơm ngát với đời. Trong thơ Hồ Xuân Hương bà miêu tả vẻ đẹp hình thức của người phụ nữ rất tài tình tiêu biểu là bài “Thiếu nữ ngủ ngày” ca ngợi vẻ đẹp trên cơ thể của cô gái trẻ tuổi với các chi tiết gợi hình gợi cảm:
“Lược trúc chải dài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long
Ðôi gò bồng đảo sương còn ngậm
Một lạch đào nguyên suối chửa thông”
Cách miêu tả chân thực không một chút bỡn cợt trái lại còn rất nâng niu, trân trọng khác xa với lối viết ước lệ tượng trưng mà không chú ý đến nhan sắc người phụ nữ của các tác gia trước bà. Hồ Xuân Hương xứng đáng là nhà thơ của phụ nữ Việt.
Trong bài “Thương vợ” nhan sắc của bà Tú tuy không được Tú Xương nhắc đến nhưng mở rộng vốn văn học ta cũng phải ngẫm bà Tú ngoài phẩm hạnh tốt đẹp bên trong thì vẻ đẹp nhan sắc của bà cũng không kém ai nên mới có thể lấy được ông Tú-người học rộng và am hiểu bởi tiêu chuẩn chọn vợ trong xã hội thời xưa là con người hội tụ vẻ đẹp của “Công dung ngôn hạnh”.
Không chỉ có vẻ đẹp về nhan sắc qua hai bài thơ người phụ nữ còn có mang trong mình nét đẹp về phẩm hạnh đáng quý luôn son sắt, chung thủy và chịu thương chịu khó, biết hi sinh vì chồng con. Trong bài “Bánh trôi nước” Hồ Xuân Hương ngợi ca “tấm lòng son”-giá trị nhân phẩm của người phụ nữ luôn vẹn nguyên trước mọi hoàn cảnh. Thơ của Hồ Xuân Hương là tiếng nói táo bạo dám tự tin khẳng định giá trị của bản thân nói riêng và nhân phẩm người phụ nữ nói chung. Còn bà Tú được Tú Xương ca ngợi bởi tấm lòng nhân hậu của bà luôn cố gắng và hết lòng hi sinh cho gia đình. Bà Tú phải vất vả ngược xuôi “Quanh năm buôn bán ở mom sông” để “Nuôi đủ năm con với một chồng” gánh nặng cơm áo gạo tiền đổ lên đôi vai người phụ nữ, “một chồng” được đặt ngang hàng với “năm con” để cho thấy số tiền phải chi tiêu cho ông Tú bằng miệng ăn, áo mặc của năm đứa con cộng lại. Nuôi một ông chồng tài hoa như ông Tú không chỉ là lo miếng cơm manh áo mà còn phải chuẩn bị sẵn cho ông ít rượu ít trà, ít tiền bỏ túi khi đi thi... Vậy mà bà Tú đã toan lo tất cả nhưng nào dám quản công, kể lể bà cho đó là duyên nợ “Một duyên hai nợ âu đành phận/ Năm nắng mười mưa dám quản công” là vậy. Bà sẵn sàng chấp nhận điều đó. Suy nghĩ và tâm trạng của bà Tú cũng là tâm trạng chung, suy nghĩ chung của người phụ nữ xưa. Trong xã hội hiện đại ngày nay với cuộc sống văn minh, phát triển nhưng liệu còn có bao nhiêu người phụ nữ có thể làm được điều đó cho gia đình?
Tuy hội tụ cả vẻ đẹp bên ngoài lẫn phẩm chất bên trong nhưng hình ảnh người phụ nữ thời xưa hiện lên là những con người với số phận bé nhỏ, bất hạnh. Đại thi hào Nguyễn Du đã từng cất lên tiếng khóc thương cảm, xót xa cho thân phận của họ. Không phải vô duyên vô cớ mà ông cất lên tiếng nấc thay lòng cho người phụ nữ trong “Văn chiêu hồn” với câu thơ:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?”
Hay trong kiệt tác “Truyện Kiều” là lời than vãn:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Trong xã hội phong kiến với những quan niệm, tư tưởng khắt khe về người phụ nữ như “Tam tòng tứ đức”, “Nhất nam viết hữu thập nữ viết vô” rồi “Nữ nhân ngoại tộc” vô tình đã trở thành sợi dây vô hình trói buộc con người vào lề thói cổ hủ lạc hậu khiến cho họ không có tiếng nói, không có quyền quyết định cho số phận cuộc đời mình. Trong bài “Bánh trôi nước” người phụ nữ là những chiếc bánh trôi để “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn” để cho số phận long đong lận đận “Bảy nổi ba chìm với nước non”. Chi tiết ấy khiến cho ta nhớ tới hình ảnh chiếc bách nổi lênh đênh tượng trưng cho số kiếp nổi nênh của người phụ nữ:
“Chiếc bách buồn vì phận nổi nênh
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh”
Quan niệm phong kiến đã tước đoạt đi quyền làm người và đáng sợ hơn là nó biến người phụ nữ thành cái bóng mờ nhạt trong cuộc đời, sự sống là sự tồn tại vô nghĩa chứ không được trọn vẹn đúng nghĩa với từ “Sống”.
Trong bài “Thương vợ” đó là hình ảnh người phụ nữ của gia đình-bà Tú người đã khổ về gánh nặng vật chất miếng cơm manh áo cho bảy miệng ăn lại còn khổ về mặt tinh thần. Bà hết lòng vì chồng vì con nhưng chồng nào có thấu hiểu hay không? Ông Tú tự nhận mình là một người chồng vừa bất tài vô dụng không giúp được gì lại còn “hờ hững” thờ ơ trước nỗi khổ của vợ. Nỗi khổ ấy là “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”, là “Có chồng hờ hững cũng như không”. Ông Tú đã nhập vai, hóa thân vào bà Tú để cảm thông, thấu hiểu và cất lên lời than vãn, tiếng chửi của bà một mặt thể hiện tình cảm của ông dành cho vợ, một mặt tự trào phúng bản thân mình.
Hai bài thơ cùng một đề tài cùng làm nổi bật lên hình ảnh người phụ nữ thời xưa với vẻ đẹp dung nhan bên ngoài và tâm hồn nhân cách bên trong nhưng toát lên là thân phận bé nhỏ, phụ thuộc rất đáng thương. Họ cũng là tấm gương tiêu biểu cho vẻ đẹp phẩm chất người phụ nữ Việt. “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương, “Thương vợ” của Trần Tế Xương đã góp vào tiếng nói chung bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ-những con người gánh vác trọng trách duy trì sự sống, sự sinh tồn trên trái đất.
Nguồn: Sưu tầm
soanvan.me