Đề bài
PHẦN I: ĐỌC HIỂU
Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi từ 01 đến 04:
Trì hoãn là hiện tượng tâm lí và hành vi khá phổ biến của con người. Mỗi người đều có thói quen trì hoãn cái này cái kia; bình thường thì chỉ là tật xấu nhưng nghiêm trọng sẽ trở thành “bệnh”. Nhưng dù có nghiêm trọng hay không, trì hoãn sẽ tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với cuộc sống và công việc.
Sự nguy hại của trì hoãn nằm ở chỗ, trên thực tế nó là một “bệnh mãn tính dạng ẩn”; trong thời gian ngắn sẽ thấy không ảnh hưởng quá nhiều, nhưng về lâu về dài thì nguy hại khôn lường. Quan trọng hơn, rất nhiều người mắc bệnh trì hoãn mà không biết. Họ luôn tìm được những lời giải thích tưởng chừng rất hợp lý cho hành vi trì hoãn của mình, đến khi phát hiện ra thì đã bước vào giai đoạn cuối và rất khó điều trị tận gốc.
Trì hoãn là sát thủ của thời gian. Nó sẽ rút ngắn độ dài của tuổi thọ chúng ta, khiến chúng ta hao mòn năm tháng, tuổi xuân trong sự chờ đợi vô vọng và nỗi hối hận căm hờn vô bờ bến.
Trì hoãn là kẻ cắp của sinh mệnh. Nó sẽ đánh cắp sự nhiệt tình, cơ hội, mài mòn ý chí chiến đấu của mỗi người trong vô thức, khiến cuộc sống dậm chân tại chỗ.
(Trích Tuổi trẻ không trì hoãn, Thần Cách, Đỗ Mai Dung dịch, Nxb Thế giới, tr.06, 2017)
Câu 1. Xác định thao tác lập luận chính của đoạn trích.
Câu 2. Nêu một biện pháp tu từ cú pháp được sử dụng ở đoạn trích.
Câu 3. Theo tác giả, thói quen trì hoãn gây ra những ảnh hưởng tiêu cực nào đối với cuộc sống con người?
Câu 4. Theo anh/chị, những nguyên nhân nào dẫn tới thói quen trì hoãn của con người?
PHẦN II: LÀM VĂN
Câu 1.
Từ nội dung của đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) về chủ đề: Sống là không chờ đợi.
Câu 2.
Đọc kĩ đoạn trích sau:
[…] Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biển bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc, phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Và như vậy, giống như sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông. Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh sông đào mang nước sông Hương tỏa đi khắp phố phường với những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được. Những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, khiến cho sông Hương khi đi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. Tôi đã đến Lê-nin-grat, có lúc đứng nhìn sông Nê-va cuốn trôi những đám băng lô xô, nhấp nháy trăm màu dưới ánh sáng mặt trời mùa xuân, mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng và đoàn tàu tốc hành lạ lùng ấy với những hành khách tí hon của nó băng băng lướt qua trước cung điện Pê-téc-bua cũ để ra bể Ban-tích. […] Hai nghìn năm trước, có một người Hi Lạp tên là Hê-ra-clít, đã khóc suốt đời vì những dòng sông trôi đi qua nhanh, thế vậy! Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố… Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.
(Trích Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12, Tập một, Nxb Giáo dục Việt Nam, tr.199-200, 2014).
Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng dòng sông trong đoạn trích trên.
Từ đó, liên hệ với bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử) để nhận xét về vẻ đẹp của sông Hương – xứ Huế trong cảm nhận của hai tác giả.
Lời giải chi tiết
I. ĐỌC HIỂU
Câu 1:
- Thao tác lập luận: Phân tích
Câu 2:
- Biện pháp tu từ cú pháp: Điệp cấu trúc
Câu 3:
Theo tác giả, những ảnh hưởng tiêu cực của thói quen trì hoãn là:
- Khiến tuổi xuân trôi qua lãng phí, hao mòn bởi sự chờ đợi.
- Đánh cắp sự nhiệt tình, làm mất đi cơ hội, mài mòn ý chí.
- Khiến cuộc sống dậm chân tại chỗ.
Câu 4:
Thí sinh đưa ra được những nguyên nhân hợp lí. Cụ thể:
- Cuộc sống có nhiều thứ hấp dẫn cuốn ta theo: Phim ảnh, games, mạng xã hội, các hình thức giải trí…
- Bản thân chưa có nhận thức đầy đủ về tác hại của sự lãng phí thời gian, hoặc chưa đủ kiên trì, bản lĩnh, sự quyết tâm để vượt thắng sự cám dỗ của những thứ vô bổ.
- Chưa biết cách lập kế hoạch cho cuộc sống hoặc lập kế hoạch không phù hợp, không khoa học.
II.LÀM VĂN
Câu 1:
a. Yêu cầu về kĩ năng: đảm bảo cấu trúc đoạn văn; diễn đạt lưu loát, không mắc lỗi cơ bản về diễn đạt, chính tả; đảm bảo tương đối dung lượng như yêu cầu của đề.
b. Yêu cầu về kiến thức:
Đoạn văn cần đảm bảo những ý chính sau:
- Xác định đúng vấn đề cần bàn luận: Sống không trì hoãn, tận dụng từng giây phút cuộc đời để sống có ích.
- Bàn luận:
+ Xã hội, cuộc sống luôn vận động không ngừng. Bạn trì hoãn, bạn chờ đợi, bạn sẽ bị bỏ lại phía sau.
+ Sống tích cực, chủ động, tận dụng mọi thời gian, cơ hội mình có để hoàn thiện bản thân, đóng góp cho xã hội.
+ Sống không chờ đợi không có nghĩa là sống vội, sống ẩu, sống vô trách nhiệm, chạy theo các quan điểm sống hời hợt.
Bài học: Hình thành nhận thức đúng đắn, tích cực về cuộc sống. Rèn luyện bản lĩnh, tích lũy tri thức và bồi dưỡng tâm hồn… để có một cuộc sống tích cực, lành mạnh, hữu ích.
Câu 2:
Cảm nhận vẻ đẹp của sông Hương qua đoạn trích. Liên hệ với bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ để nhận xét về vẻ đẹp của sông Hương - xứ Huế.
a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận.
b. Xác định đúng luận đề: Vẻ đẹp sông Hương đoạn chảy qua kinh thành Huế. Liên hệ với bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ để thấy vẻ đẹp sông Hương xứ Huế.
c. Triển khai luận đề: Triển khai thành các luận điểm, thể hiện sự cảm nhận sâu sắc và vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng.
1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vị trí đoạn trích.
2. Phân tích:
2.1 Cảm nhận vẻ đẹp của sông Hương qua đoạn trích
- Khái quát vẻ đẹp của sông Hương phía thượng nguồn và đoạn chảy qua vùng trung du.
- Đoạn chảy qua kinh thành Huế, vẻ đẹp của sông Hương được cảm nhận dưới nhiều góc độ:
+ Sông Hương được nhân hóa để thành một thiếu nữ với tâm trạng “vui tươi, yên tâm” khi gặp người tình mong đợi. Nó vừa e ấp kín đáo vừa tha thiết mãnh liệt “như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu”
+ Nhìn bằng con mắt của hội họa: sông Hương cùng những chi lưu tạo nên những đường nét thật mềm mại, tinh tế và cổ kính.
+ Cảm nhận bằng âm nhạc: sông Hương như điệu slow du dương, sâu lắng và ngập tràn tình cảm.
- Đoạn văn nhẹ nhàng với ngòi bút tinh tế, lối viết giàu cảm xúc, kết hợp giữa miêu tả và tự sự. Các biện pháp nghệ thuật: so sánh, nhân hóa… được sử dụng hiệu quả. Tất cả cho thấy một cái tôi Hoàng Phủ Ngọc Tường thực sự tài hoa và chân thành yêu sông Hương - xứ Huế.
2.2 Liên hệ với bài “Đây thôn Vĩ Dạ”
- Bức tranh sông Hương trong cảm nhận của Hàn Măc Tử:
+ Điệu chảy nhẹ nhàng trong nỗi buồn sâu lắng: dòng nước buồn thiu.
+ Dòng sông trăng đầy huyền ảo, mơ hồ, lãng mạn, chở khát vọng vượt thoát đau thương.
2.4 Nhận xét về vẻ đẹp sông Hương - xứ Huế
- Sông Hương nổi bật với điệu chảy nhẹ nhàng, sâu lắng, rất tiêu biểu cho vẻ đẹp lãng mạn đắm say của xứ Huế mộng mơ.
- Sông Hương xứ Huế có khả năng khơi gợi tình cảm sâu thẳm trong trái tim con người.
d. Sáng tạo
- Có cách diễn đạt sáng tạo.
- Có suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ.
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu
Xem thêm: Đề và Lời giải chi tiết Đề thi thử THPT Quốc gia môn Ngữ văn mới nhất tại Tuyensinh247.com
soanvan.me