I. Về thể loại
Ca dao, dân ca là những khái niệm tương đương, chỉ các thể loại trữ tình dân gian, kết hợp lời với nhạc, diễn tả đời sống nội tâm của con người. Hiện nay, người ta cũng có phân biệt được hai loại ca dao và dân ca. Dân ca là những sáng tác kết hợp lời và nhạc, tức những câu hát dân gian trong diễn xướng. Ca dao chính là lời thơ của dân ca. Ca dao còn bao gồm cả những bài thơ dân gian mang phong cách nghệ thuật chung với lời thơ của dân ca. Khái niệm của ca dao còn được dùng để chỉ một thể thơ dân gian - thể ca dao.
Ca dao, dân ca thuộc loại trữ tình, thường phản ánh tâm tư, tình cảm, thế giới tâm hồn của con người. Nhân vật trữ tình phổ biến trong ca dao, dân ca là những người vợ, người chồng, người mẹ, người con,...trong quan hệ gia đình, những chàng trai, cô gái trong quan hệ tình cảm, người nông dân, người phụ nữ,...trong quan hệ xã hội. Ngoài ra, cũng có những bài ca dao nhằm châm biếm, phê phán những thói hư tật xấu của những hạng người và sự việc đáng cười trong xã hội. Ca dao châm biếm thể hiện khá tập trung những nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng dân gian Việt Nam.
Ngoài ra, bên cạnh những đặc điểm giống với trữ tình, ca dao, dân ca còn có những đặc thù riêng như:
- Ngắn, chỉ gồm hai hoặc bốn dòng thơ
- Thường sử dụng thủ pháp lặp như là một thủ pháp chủ yếu để tổ chức hình tượng.
Có thể nói, ca dao, dân ca là mẫu mực về tính chân thực, hồn nhiên, cô đúc, về sức gợi cảm và khả năng lưu truyền. Ngôn ngữ ca dao, dân ca là ngôn ngữ thơ nhưng vẫn rất gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân và mang màu sắc địa phương rất rõ.
II. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1:
* Trong ca dao, người nông dân thời xưa thường mượn hình ảnh con cò để diễn tả cuộc đời, thân phận mình. Một số bài ca dao để minh chứng cho nhận định trên là:
Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
Nàng về nuôi cái cùng con
Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng.
Hay:
Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.
* Người nông dân hay mượn hình ảnh con cò để nói về mình là do con cò thường kiếm ăn trên đồng ruộng, cho nên hình ảnh con cò gần gũi với người nông dân nhất. Bên cạnh đó, con cò cũng là loài động vật chịu khó, vất vả kiếm sống và sở hữu nhiều đặc điểm giống với cuộc đời, với phẩm chất của người nông dân.
Câu 2:
* Ở bài 1, cuộc đời lận đận, vất vả của con cò được diễn tả bằng hình ảnh đối lập. Cò phải một mình lận đận giữa miền nước non, phải "lên thác xuống ghềnh", gặp biết bao nhiêu là khó khăn, trở ngại, nguy hiểm. Nhưng trớ trêu thay, cuộc sống của cò lại nhiều ngang trái "bể đầy", "ao cạn" để rồi tấm thân kia đã nhỏ bé, ngày càng trở nên nhỏ bé, gầy gò, dù có chắt chiu thế nào thì vẫn không đủ sống.
* Con cò trong bài ca dao trên còn là hình ảnh ẩn dụ mà tác giả dân gian sử dụng để nói về cuộc đời người nông dân, một số phận quá cay đắng, đáng thương. Ngoài nội dung than thân, bài ca còn có nội dung là phản ánh, tố cáo xã hội phong kiến trước đây. Một xã hội đầy rẫy những bất công, ngang trái, một xã hội chỉ có áp bức, bóc lột người nông dân - một thân phận nhỏ bé, cơ cực.
Câu 3:
* Theo em, cụm từ "Thương thay" là tiếng than, là biểu hiện của sự thương cảm, xót xa.
* Trong bài ca dao này, từ "Thương thay" được lặp lại tới 4 lần và mang những sắc thái, ý nghĩa:
- Mỗi lần lặp lại là một lần thể hiện nỗi xót thương đối với những người lao động nghèo khổ, đồng thời, đó cũng là lời than vãn cho thân phận mình. Và sau mỗi lần lặp lại như vậy, nỗi xót thương ấy dường như thêm thấm sâu vào tận đáy lòng.
- Bên cạnh đó, sự lặp lại nhiều lần cụm từ này còn bao hàm ý nghĩa rộng hơn, thể hiện niềm xót thương sâu sắc cho tất cả những người nông dân - một giai cấp thấp cổ bé họng chịu nhiều oan ức trong xã hội phong kiến.
Câu 4:
Những nỗi thương thân của người lao động qua những hình ảnh ẩn dụ trong bài 2:
Trong ca dao, dân ca, tác giả dân gian thường mượn hình ảnh những con vật để ẩn dụ nói về thân phận của mình. Cụ thể, trong bài ca dao số 2:
- Hình ảnh con tằm: nói lên thân phận của con người suốt đời bị bòn rút sức lao động
- Hình ảnh con kiến: những cuộc đời nhỏ bé, tầm thường, vất vả xuôi ngược mà vẫn nghèo khó
- Hình ảnh con hạc: cuộc đời phiêu bạt, khốn khó, mệt mỏi mà không có tương lai, những cố gắng vô vọng của người nông dân
- Hình ảnh con cuốc: nói lên thân phận của những kẻ "thấp cổ bé họng", dù có than thở đến kiệt sức thì cũng không có ai động lòng, thương xót.
=> Bốn con vật, bốn nỗi khổ, bốn cảnh ngộ đáng thương khác nhau cho thấy nỗi khổ nhiều bề của những người dân lao động.
Câu 5:
* Một số bài ca dao mở đầu bằng cụm từ "Thân em":
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
Hay:
Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.
Hay:
Thân em như miếng cau khô
Kẻ thanh tham mỏng, người thô tham dày.
* Những bài ca ấy thường nói về thân phận long đong, lận đận của người phụ nữ trong xã hội xưa. Nỗi khổ lớn nhất mà người phụ nữ nào cũng phải chịu đó chính là số phận bị phụ thuộc, không được tự quyền quyết định về hạnh phúc, về tương lai của mình.
Những bài ca dao trên thường giống nhau về mặt nghệ thuật: đều mở đầu bằng cụm từ "Thân em" và đều dùng biện pháp so sánh để thể hiện số phận và nỗi khổ của người phụ nữ xưa.
Câu 6:
Bài 3 nói về thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Hình ảnh so sánh ở bài này là "trái bần trôi". Trái bần trôi cũng như mù u, sầu riêng thường gợi đến cuộc đời nghèo khổ, buồn đau, đắng cay.
Hình ảnh so sánh ở bài này được miêu tả bổ sung bằng các chi tiết "gió dập", "sóng dồi", "biết tấp vào đâu". Những chi tiết này càng góp phần gợi lên cuộc đời của người phụ nữ quá nhỏ bé, số phận của họ thật lênh đênh, hoàn toàn bị phụ thuộc. Câu ca dao chính là lời than thân, trách phận về cuộc đời nghèo khổ, phải chịu nhiều sóng gió của người phụ nữ, và quan trọng, họ không có quyền được quyết định về hạnh phúc, về tương lai của chính mình.