Xin chào các em! Sau đây, Soạn Văn sẽ hướng dẫn các em sọan bài: Về luân lí xã hội ở nước ta của tác giả Phan Châu Trinh. Tác phẩm được biên soạn trong chương trình SGK Ngữ Văn 11 Tập 2. Mời các em cùng tham khảo!

I. Tác giả, tác phẩm

1. Tác giả: Phan Châu Trinh (các em tham khảo phần giới thiệu tác giả Phan Châu Trinh trong SGK Ngữ Văn 11 Tập 2).

2. Tác phẩm

* Xuất xứ: Về luân lí xã hội ở nước ta là một đoan trích trong phần ba của bài Đạo đức và luân lí Đông Tây (gồm năm phần chính, kể cả nhập đề và kết luận), được Phan Châu Trinh diễn thuyết vào đêm 19-11-1925 tại nhà Hội Thanh niên ở Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh). Tên bài cũng như các số thứ tự trong đoạn trích do người biên soạn đặt.

* Bố cục: Đoạn trích có thể được chia làm 3 đoạn:

  • Đoạn 1: từ đầu => thiên hạ mất đi đã từ lâu rồi : Tác giả khẳng định nước ta chưa có luân lí xã hội.
  • Đoạn 2: tiếp => Việt Nam ta không có cũng vì thế : Sự thua kém về luân lí xã hội của ta so với phương Tây.
  • Đoạn 3: còn lại : Chủ trương truyền bá XHCN cho người Việt Nam.

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:

* Bố cục: như trên

* Chủ đề tư tưởng của đoạn trích là: cần truyền bá chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam để gây dựng đoàn thể nhằm hướng tới mục đích giành độc lập, tự do.

Câu 2:

Trong phần 1 của đoạn trích, tác giả đã chọn cách vào đề trực tiếp, thẳng thắn, gây ấn tượng mạnh mẽ cho người nghe:

  • Tác giả dùng cách nói phủ định: "Xã hội luân lí thật trong nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến, so với quốc gia luân lí thì người mình còn dốt nát hơn nhiều"
  • Kết hợp với phủ nhận, xuyên tạc vấn đề của không ít người, tác giả đã khẳng định: "Một tiếng bè bạn không thể thay cho xã hội luân lí được, cho nên không cần cắt nghĩa làm gì"

Câu 3:

Trong phần 2, ở đoạn đầu, tác giả đã so sánh "bên châu Âu", "bên Pháp" với "bên ta" về:

* Bên châu Âu, bên Pháp đã có nền luân lí xã hội:

  • Bên Châu Âu, cái XHCN rất thịnh hành và đã được phát triển rộng rãi
  • Dẫn chứng: bên Pháp, mỗi khi một người hay một hội nào bị đè nén quyền lợi riêng, thì người ta hoặc kêu nài, hoặc chống cự, hoặc thị oai, vận dụng được đến công bằng mới nghe
  • Nguyên nhân: Có ý thức đoàn thể, sẵn sàng làm việc chung, sẵn sàng giúp đỡ, tôn trọng quyền lợi của nhau.

* Bên ta chưa có nền luân lí xã hội:

  • Dân ta chưa biết, chưa hiểu thế nào là luân lí xã hội, họ điềm nhiên như ngủ, chẳng biết gì (thờ ơ, tê liệt)
  • Dẫn chứng: Phải ai nấy hay, ai chết mặc ai, cháy nhà hàng xóm bình dân như vại, đèn nhà ai nhà ấy rạng, chỉ nghĩ đến sự yên ổn của riêng mình, bất công cũng cho qua.
  • Nguyên nhân: người nước mình thiếu ý thức đoàn thể.

Câu 4:

* Ở các đoạn sau của phần 2, tác giả chỉ ra nguyên nhân của tình trạng "dân không biết đoàn thể, không trọng công ích" là:

  • Hồi cổ sơ, ông cha ta đã có ý thức đoàn thể, cũng biết đến công đức, nhưng lũ vua quan phản động, thối nát "ham quyền tước, ham bả vinh hoa", "muốn giữ túi tham của mình được đầy mãi" nên đã tìm cách "phá tan tành đoàn thể của quốc dân".
  • Tác giả đã hướng mũi nhọn đả kích vào bọn vua quan, vạch trần bản chất phản động, thối nát của chúng: không quan tâm đến cuộc sống của dân; muốn dân tối tăm, khốn khổ để chúng dễ dàng thống trị, vơ vét; "rút tỉa của dân" để trở nên giàu sang, phú quý;...

* Tác giả đả kích chế độ vua quan chuyên chế: sử dụng những từ ngữ, hình ảnh gợi tả, dùng lối so sánh ví von sắc bén để thể hiện thái độ căm ghét đến cao độ đối với chế độ vua quan chuyên chế: "bọn học trò", "bọn thượng lưu", "kẻ mang đai đội mũ", "kẻ áo rộng khăn đen", "bọn quan lại", "ngất ngưởng ngồi tin", "lúc nhúc lạy dưới",...

=> Qua đây, cho chúng ta thấy được tấm lòng của một người có tình yêu đất nước tha thiết, ông cảm thấy xót xa trước tình cảnh khốn khổ của người dân, luôn quan tâm đến vận mệnh của dân tộc, căm ghét bọn quan lại xấu xa thối nát. Dưới mắt tác giả, chế độ vua quan chuyên chế thật vô cùng tồi tệ, cần phải xoá bỏ triệt để.

Câu 5:

Cách kết hợp yếu tố biểu cảm với yếu tố nghị luận trong đoạn trích:

  • Yếu tố biểu cảm: tác giả sử dụng những câu văn cảm thán, câu mở rộng thành phần, những cụm từ chứa tình cảm đồng bào, tình cảm dân tộc sâu nặng, thắm thiết, lời văn nhẹ nhàng, từ tốn. Tác dụng: làm tăng thêm sức thuyết phục, lay chuyển mạnh mẽ nhận thức và tình cảm của người nghe.
  • Yếu tố nghị luận: cách luận lập của tác giả rất chặt chẽ, logic, nêu dẫn chứng cụ thể, xác thực, giọng văn mạnh mẽ, hùng hồn.